Trong hành trình giảm nghèo bền vững, bên cạnh chính sách và nguồn lực nhà nước, những tấm gương cá nhân, hộ gia đình luôn là hạt nhân khơi dậy ý chí, lan tỏa kinh nghiệm và truyền cảm hứng để cả cộng đồng cùng quyết tâm phát triển kinh tế và thoát nghèo. Từ những mô hình phát triển kinh tế hộ, hợp tác xã, đến tinh thần tự lực của từng người dân, mỗi câu chuyện thoát nghèo đều là một “hạt giống” lan tỏa, tiếp sức cho hành trình giảm nghèo bền vững trên khắp dải đất Việt Nam.
Việt Nam đang bước vào chặng cuối của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, với định hướng rõ ràng: không để ai bị bỏ lại phía sau, và mọi người dân đều có cơ hội vươn lên bằng chính sức mình.
Nếu như trước đây, chính sách giảm nghèo tập trung vào hỗ trợ trực tiếp với các hành động “chia cơm sẻ áo” thì nay, hướng đi mới là “trao cần câu”, tạo sinh kế, nâng cao năng lực nghề nghiệp, hỗ trợ vốn và kết nối thị trường để hộ vươn lên thoát nghèo. Cách tiếp cận này giúp người dân tự chủ hơn trong sản xuất, tự tin hơn trong thoát nghèo và hình thành nền tảng phát triển bền vững ở cấp cộng đồng.
Với sự quan tâm sâu sát của Đảng và Nhà nước, năm 2025, tổng vốn đầu tư cho Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững dự kiến hơn 20.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương chiếm khoảng 70%, phần còn lại huy động từ địa phương và các nguồn xã hội hóa. Nguồn vốn này tập trung cho các nhóm dự án trọng tâm như: hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo; đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao năng lực, chuyển đổi số và đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Cùng với các chính sách và nguồn lực hỗ trợ, sự quyết tâm của mỗi người dân trong số hộ nghèo, hộ cận nghèo đã phát huy hiệu quả của Chương trình giảm nghèo bền vững và gặt hái được những thành tựu mới. Đồng thời, Chương trình đã triển khai hàng nghìn mô hình sinh kế, thu hút hàng trăm nghìn hộ tham gia, góp phần thay đổi tư duy, khơi dậy nội lực của người dân và thúc đẩy phát triển cộng đồng theo hướng bền vững.
Mỗi hành trình vươn lên đều khởi đầu từ một ý chí. Có những người bắt đầu từ vài sào ruộng cằn, có người khởi nghiệp với đôi bàn tay trắng, nhưng điểm chung là không cam chịu đói nghèo, không khất phục trước số phận. Chính vì vậy, khi có sự hỗ trợ của chính sách, từ ý chí và sự kiên trì, dám nghĩ, dám làm, nhiều hộ nghèo đã nắm lấy cơ hội, viết nên câu chuyện đổi đời của chính mình và lan tỏa tinh thần vượt khó đến cả cộng đồng.
Ở xã Bản Máy, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang (nay là xã Bản Máy, tỉnh Tuyên Quang), gia đình anh Giàng Chẩn Dì từng chỉ trông vào một vụ lúa, một vụ ngô, thu nhập chưa tới 10 triệu đồng/năm cho 8 người.
Với sự vận động, hỗ trợ kỹ thuật và vốn vay ban đầu (khoảng 20 triệu đồng) từ Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, anh quyết định cải tạo vườn tạp, trồng sa nhân kết hợp chăn nuôi. Sau vài mùa, từ vài tạ sa nhân giá thấp đến khi có thị trường xuất khẩu, gia đình anh đã có bước chuyển lớn, trả hết nợ, mua sắm tiện nghi và đặc biệt là hỗ trợ các hộ lân cận về giống, kỹ thuật và kinh nghiệm.
Anh Dì chia sẻ: “Trước kia nhà mình nghèo lắm... Cái bụng nghĩ phải làm ăn chăm chỉ để thoát nghèo thôi!” câu nói giản dị nhưng chứa đựng ý chí liên tục hành động để thay đổi.
Câu chuyện của anh được đưa ra như một minh chứng cho thấy chính sách kết hợp vận động, hướng dẫn kỹ thuật và vốn nhỏ có thể tạo đột phá tại vùng cao.
Khi nhắc tới thôn Lộ Bao, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du (Bắc Ninh), người dân không chỉ nói đến một người phụ nữ chịu thương, chịu khó mà còn nhớ đến một hình ảnh hiếm có về người phụ nữ đã cùng cả xóm vươn lên thoát nghèo. Sau mất mát gia đình và thời gian khó khăn, gia đinh bà Mơ được chính quyền xã và tổ chức hội hỗ trợ bảo hiểm y tế miễn phí, miễn giảm học phí, và mở đường cho vay vốn ưu đãi. Bà Mơ đã mạnh dạn vay 25 triệu đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội để đầu tư phát triển chăn nuôi.
Đến cuối năm 2022, bà chủ động đăng ký thoát nghèo, vươn lên trở thành hộ khá, không chỉ lo cho gia đình mà còn hỗ trợ, chia sẻ kỹ thuật, hướng dẫn các hộ nghèo khác. Những cá nhân điển hình như bà Mơ là mắt xích quan trọng giữa nguồn lực nhà nước và sự lan tỏa trong cộng đồng, biến hỗ trợ thành sinh kế bền vững cho nhiều gia đình khác.
Sinh ra trong một gia đình thuần nông nghèo khó ở xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, bà Trần Thị Chung đã trải qua những ngày tháng khó khăn, vất vả. Với quyết tâm đổi mới tư duy làm ăn, bà Chung đã mạnh dạn thuê thêm đất trồng rau màu, nuôi gia súc, gia cầm thương phẩm. Qua thời gian, mô hình của bà ngày càng được mở rộng và còn tạo việc làm ổn định cho cả lao động địa phương.
Đặc biệt, bà Chung không chỉ dừng lại ở việc làm giàu cho bản thân gia đình. Với vai trò Bí thư chi bộ, Trưởng xóm Đoàn Kết, bà là người tiên phong truyền kỹ thuật, kinh nghiệm cho hơn 130 hộ nông dân khác, giúp đỡ ít nhất 25 hộ nghèo, hộ cận nghèo trong xóm vươn lên thoát nghèo. Qua câu chuyện của bà Chung cho thấy, giảm nghèo không chỉ là việc “thoát khỏi danh sách hộ nghèo” mà còn là quá trình nâng cao năng lực, tạo dựng sinh kế và lan tỏa tinh thần chủ động vươn lên thoát nghèo.
Ngoài cá nhân, còn có những mô hình hợp tác xã, các mô hình OCOP, homestay, chăn nuôi tập trung… mỗi mô hình là một hạt nhân tạo việc làm, tăng thu nhập và kết nối thị trường cho nhiều hộ gia đình khác.
Dù đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng trên hành trình giảm nghèo vẫn còn không ít “độ dốc” khiến hành trình bền vững trở nên khó khăn hơn dự tính. Thực tế tại nhiều địa phương, thoát nghèo chưa chắc đã là điểm kết thúc. Không ít hộ dân vừa thoát chuẩn nghèo lại rơi vào cảnh khó khăn khi gặp biến cố về thiên tai, ốm đau, dịch bệnh, hay mất mùa. Nguy cơ tái nghèo và nghèo phát sinh vẫn là bài toán nan giải, nhất là ở vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi điều kiện sản xuất còn mong manh và thị trường tiêu thụ bấp bênh.
Có nơi, người dân “ngại” thoát nghèo vì sợ mất các chế độ hỗ trợ, hoặc đơn giản là chưa có phương án sinh kế thay thế bền vững. Đây không chỉ là lời cảnh tỉnh, mà còn là hồi chuông cảnh báo về nhận thức xã hội và thiết kế chính sách cần được làm mới. Công cuộc giảm nghèo chỉ thực sự bền vững khi người dân có năng lực làm giàu, biết cách tạo ra giá trị, chứ không chỉ thoát khỏi ngưỡng thiếu thốn.
Thực tiễn từ nhiều địa phương cho thấy, để một chương trình giảm nghèo bền vững thực sự đi vào đời sống, cần sự cộng hưởng của ba yếu tố: chính sách đúng – con người tiên phong – cơ chế kết nối thị trường. Chính sách là “đòn bẩy”, điển hình là “ngọn lửa”, còn thị trường là “cánh tay nối dài” giúp những nỗ lực thoát nghèo trở nên vững chắc và có giá trị lâu dài.
Việc tôn vinh và nhân rộng các điển hình tiên tiến không chỉ là biểu dương tinh thần vượt khó mà còn là cách lan truyền niềm tin và cảm hứng hành động. Khi những câu chuyện về anh Giàng Chẩn Dì, bà Nguyễn Thị Mơ hay bà Trần Thị Chung được kể lại, đó không chỉ là hành trình của cá nhân mà là minh chứng sống động về sự kết hợp giữa ý chí vươn lên và chính sách hỗ trợ để đạt được thay đổi bền vững
Để hành trình “không để ai bị bỏ lại phía sau” đi xa và bền vững hơn, cần tiếp tục củng cố cơ chế chính sách theo hướng trao quyền cho địa phương, mở rộng đào tạo kỹ thuật, phát huy vai trò hợp tác xã và doanh nghiệp, đồng thời đặt con người ở trung tâm của mọi chính sách. Bởi chính họ, với nghị lực và khát vọng vươn lên, là “chất xúc tác” để cộng đồng cùng phát triển, để mỗi vùng quê Việt Nam thật sự thay đổi từ bên trong.
13:30 08/11/2025